MAI TRUNG THỨ (1906-1980) Khoảnh khắc âm nhạc, sáng tác năm 1944.
MAI TRUNG THỨ (1906-1980)
Khoảnh khắc âm nhạc, sáng tác năm 1944.
Mực và màu trên lụa, chữ ký và ngày tháng ghi ở trên bên trái.
"Âm nhạc là ngôn ngữ của cảm xúc" như Immanuel Kant đã viết. Mai Trung Thứ, một họa sĩ Việt Nam, chia sẻ sự nhạy cảm đối với âm nhạc này với triết gia người Phổ. Ông đã khám phá ra âm nhạc truyền thống trong thời gian giảng dạy mỹ thuật tại một trường trung học ở Huế. Thời gian lưu lại kinh đô đã cho ông cơ hội tiếp xúc với các nhạc sĩ và thực hành độc huyền (nhạc cụ truyền thống có dây) cũng như sáo ngang. Niềm đam mê âm nhạc này sẽ mãi không rời ông, bởi khi đến Pháp, ông tiếp tục chơi và tham gia các buổi hòa nhạc, đặc biệt là cho các chương trình phát thanh hoặc truyền hình.
TỨ KIỆT TRỜI ÂU: PHỔ - THỨ - LỰU - ĐÀM
Bốn họa sĩ bao gồm Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Lê Thị Lựu, Vũ Cao Đàm là bốn sinh viên thụ hưởng nền giáo dục của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương sang Pháp những năm 30 thế kỷ 20 với nhiều vọng ước. Họ đã đóng góp cho nghệ thuật nước nhà những bảng màu riêng và tạo lập nên một bộ tứ huy hoàng trời Âu với sức ảnh hưởng rộng khắp.
MAI TRUNG THỨ (1906 - 1980)
Danh họa Mai Trung Thứ hiện là họa sĩ đang nắm giữ kỷ lục về giá cho một tác phẩm tranh Việt với mức 3.1 triệu đô - tác phẩm “chân dung cô Phượng”. Ông sinh ngày 10.11.1906 tại tỉnh Kiến An, nay là Hải Phòng, miền Bắc Việt Nam. Cha ông là Mai Trung Cát, Tổng đốc Bắc Ninh bấy giờ. Năm 19 tuổi, Mai Trung Thứ đỗ khóa đầu Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và là một trong những học trò đầu tiên tốt nghiệp ra trường năm 1930. Sau đó, ông được bổ nhiệm trở thành giáo viên dạy vẽ tại trường Trung học Khải Định (nay là trường Quốc học Huế). Trong khoảng thời gian sinh sống tại Huế, ông đã nghiên cứu nhã nhạc cung đình và chơi độc huyền cầm, đàn nguyệt và đàn tranh. Cùng với đó, ông còn tham gia minh họa cho một số tạp chí và tham dự cuộc thi thiết kế tem bưu chính. Trong thập niên 1930, Mai Trung Thứ nhiều lần cùng các họa sĩ khác có tranh trưng bày ở nhiều nơi trên thế giới như ở Ý (Rome 1932, Milan 1934, Naples 1934), ở Bỉ (Brussels 1936), ở Mỹ (San Francisco 1937). Cùng năm 1937, ông tham gia triển lãm thuộc địa tại Paris và quyết định sinh sống tại đây cho tới hết đời.
Theo tiến trình thời gian, các sáng tác của Mai Trung Thứ đi từ cảnh sinh hoạt bình dị của nông thôn Việt Nam, phong cảnh cố đô cùng các vùng phụ cận do có nhiều trải nghiệm trực tiếp cho tới khi về sau này sang Pháp, ông chủ yếu vẽ bằng ký ức và chuyển từ sơn dầu sang tranh lụa. Trong suốt hơn 40 năm ở Pháp, có đôi lúc ông vẽ nhân vật là người ngoại quốc, còn lại, chủ yếu người xem tìm thấy chất trữ tình và giàu tự sự về cố quốc ở những thiếu nữ kiều diễm, những thú vui tao nhã như thưởng trà, tản bộ, làm thơ, chơi đàn, đám trẻ học bài, nô đùa hoặc tắm mát. Những chủ đề ấy đa dạng, nhiều liên tưởng, chan chứa xúc cảm, có tính chuyển động cao và truyền tải góc nhìn lý tưởng về văn hóa Việt Nam. Nói về tài năng của ông, như danh họa Lê Phổ (1907 - 2001) đã từng đưa ra nhận định: “Ít có ai tạo được thế giới sống động làm gợi nhớ quê hương Việt Nam thanh bình với bao ký ức của một tuổi thơ hồn nhiên, trong trẻo như Mai Trung Thứ”.